Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012
I. Đọc, hiểu

1. Tác giả và xuất xứ

- Nguyễn Tuân (1910 - 1988) xuất thân trong một gia đình nhà nho ở Hà Nội. Tác phẩm tiêu biểu nhất: “Vang bóng một thời” (1938), “Sông Đà”(1960),” Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…”(1972),…
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, độc đáo và uyên bác. Cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, với cái nhìn phát hiện và đầy sáng tạo. Văn của ông, chữ nghĩa của ông giàu có, tài hoa. Chuyện xưa và nay, chuyện trên rừng dưới biển, chuyện làm ăn, thú ăn chơi tao nhã… đến đặc sản, thổ ngơi, chuyện người, chuyện cây cỏ… từ rượu đến hoa, từ giò chả đến phở… được ông nói đến thật hay. Người đọc cảm thấy tâm hồn mình giàu có thêm lên qua từng trang văn độc đáo của ông, để yêu hơn, tự hào hơn đất nước, con người và nền văn hoá Việt Nam.

- Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” rút trong tác phẩm “Sông Đà”, xuất bản năm 1960.



2. Chủ đề

Qua bài tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm trong lao động, rất tài tử, tài hoa trong cuộc sống hằng ngày.

II. Đọc, cảm thụ

1. Con sông Đà hùng vĩ, dài trên năm trăm cây số, hiểm trở với hàng trăm thác ghềnh mang những cái tên cổ sơ, xa lạ (Hát Loóng, thác Giăng, Hót Gió, Mó Tôm…). ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè… !”. Âm thanh tiếng thác nghe ghê rợn như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, tre nứa bị cháy. Sông Đà có nhiều thạch trận, nhiều cửa tử ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm chực “đòi ăn chết cái thuyền”. Luồng nước vô sở bất chí, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đầy thác ghềnh, thạch trận. Những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ.

Nhịp điệu câu văn dồn dập. Từ tượng thanh, tượng hình, những ẩn dụ so sánh, tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà binh, thể thao thể dục, điện ảnh… được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở của sông Đà.

Sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng, “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…”. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ” . Nguyễn Tuân gọi sông Đà là một cố nhân. Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ. Có bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương. Cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Có đoạn, có khúc sông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử – Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Một vế cổ thi, một câu đồng dao, một câu thơ Đường, một vài câu thơ của Tản Đà, của Nguyễn Quang Bích được Nguyễn Tuân lựa chọn đưa vào, cho thấy ông là một cây bút rất sành điệu, tài hoa dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp sông Đà với tình yêu sông núi, giang sơn.

2. Người lái đò sông Đà

- Làm ăn giỏi, hơn 10 năm cùng con thuyền xuôi ngược dòng sông Đà. Thông thuộc thác ghềnh, thuộc địa hình dòng sông như thuộc bàn tay mình.

- Chiến thắng thần sông thần đá, chinh phục mọi cửa tử cửa sinh. Dũng cảm và tài ba đưa con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”, như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước… làm cho tên tướng đá “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng…”. Có lúc bị luồng nước đánh đòn ác hiểm, “hột sinh dục vụt muốn thọt lên cổ”, nhưng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo điều khiển con thuyền thoát hiểm.

- Rất tài tử. Sau một ngày dài đọ trí thi tài với thần sông thần đá, ông ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, nói về cá anh vũ, những hầm cá, hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Lúc ngừng chèo, ông chẳng hề bận tâm về chuyện vượt thác, chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa rồi.

- Một chân dung tuyệt đẹp: tuổi đã 70 mà cánh tay còn “trẻ tráng”, tóc bạc, cái đầu quắc thước, thân hình cao to, “gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Tiếng nói âm vang át cả sóng nước. Ngực, vai có những vết chai như những củ nâu mà Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “huân chương lao động siêu hạng”, với thái độ cảm phục ngợi ca.

3. Đánh giá.

“Người lái đò Sông Đà” thể hiện nghệ thuật tài hoa tài tử, uyên bác, độc đáo trong thể tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Con sông Đà là hình hài của Tổ quốc thân yêu. Người lái đò sông Đà là hình ảnh con người Tây Bắc rất dũng cảm cần cù và tài ba. Ông đã đem tình yêu sông núi, tự hào về nhân dân để viết nên một trang hoa, tờ hoa đích thực. Đọc Nguyễn Tuân mà ta nhớ Tản Đà:

“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh ấy bấy nhiêu tình”

4. Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một "cố nhân", một cố nhân "chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".

Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: "Đường lên Mường Lễ bao xa -Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà giang. Ông kể cho ta biết tên hàng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có câu tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".

ở phía trên trung lưu sông Đà, đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị "chẹt" như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. ở ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm...". Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu "ặc ặc" như rót dầu sôi vào, hút nước xoay tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe "như là oán trách..., như là van xin..., như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất "đắt" để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có "diện mạo và tâm địa" nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi "thạch trận", dày đặc "cửa tử", la liệt "boong ke chìm vào pháo đài đá nổi", những ông tướng đá trấn giữ "oai phong lẫm liệt" có bộ mặt "xanh lè" đáng sợ, sẵn sàng "bẻ gãy cán chèo", "bắt chết" những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần Sông, thần Đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi "cửa ải nước" đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.

Đọc tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà", ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với "một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải", hoặc "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai". Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa".

Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà "lặng tờ"; hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê "quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá "điểm nhãn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi gianh đầy "nõn búp". Là những con hươu rừng "thơ ngộ" ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi thoi". Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông Đà đem lại cho người đi rừng niềm vui "như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm "lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi", v.v...

5. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò "chèo thuyền vượt thác" khác, ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa" đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số "củ nâu" thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".

Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" liều mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc "bóp chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!

Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay "nắm chặt được cái bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".

Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần Sông còn bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.

Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Với niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần Sông, thần Đá nơi thác ghềnh Đà giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội họa, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v... Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa... hấp dẫn lạ thường.
Tags:

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn